TRÁI TIM ME ̣TOÀN THẮNG
Chương 7 - Phong Trào Tượng Mẹ Thánh Du Hiện tượng thứ ba biểu hiệu cho Thời Đại Maria, đó là phong trào tượng Mẹ Thánh Du khắp thế giới.Mẹ đi đến đâu thường là được nơi đó Hiến Dâng dân nước của mình cho Mẹ. Đôi khi còn có những cuộc tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu (Marian Congress) với những sứ điệp vô tuyến truyền thanh do Đức Thánh Cha ban huấn dụ tới nữa. Về Đại Hội Thánh Mẫu, nguyên năm 1948-1949, có 8 lần tổ chức. Vào tháng 12/1948, tổng số các hội đoàn, phong trào về Mẹ của các tín hữu đã lên tới 8 triệu hội viên, được chia thành 75 ngàn nhóm. Đi tiên phong trong phong trào này phải kể đến giáo hội Pháp. Bốn pho tượng Đức Bà Boulogne được thực hiện từ năm 1938, năm kỷ niệm đệ tam bách chu niên vua Louis XIII dâng nước Pháp cho Mẹ, đã thăm viếng, trong vòng 5 năm, 16 ngàn giáo xứ ở 83 địa phận, cuối cùng, vào ngày Chúa Nhật 28/3/1943, hàng giáo phẩm Pháp đã dâng mọi địa phận ở Pháp cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Trong thời gian Thánh Du của Mẹ, theo cha Devineau thuật lại: “Ban ngày thì có những cuộc cung nghinh đường trường bằng chân không từ giáo xứ này đến giáo xứ kia, bất chấp thời tiết, hè cũng như đông, nắng gắt, giá băng hay tuyết lạnh... Đêm đêm thì giảng giải và xưng tội. Khoảng 10 giờ tối bắt đầu đêm đại canh thức cầu nguyện chật nhà thờ thật sốt sắng. Giáo dân suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi, nhất là mầu nhiệm thương khó... Nửa đêm là thánh lễ có hiệp lễ với việc dâng hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ..” (TWTAF:77). Tuy nhiên, trung tâm của phong trào này phải kể đến Fatima, linh địa của Mẹ. Khởi đầu là ngày 13/10/1942, ngày làm phép triều thiên (nặng 1 ký 2) của Mẹ do một người đàn bà Bồ Đào Nha, để tạ ơn Mẹ đã gìn giữ nước Bồ khỏi nội chiến của Tây Ban Nha và Thế Chiến Thứ Hai, đã dâng cúng cho Mẹ 950 hột soàn, 313 hạt trân châu, 17 hạt hồng ngọc, 14 hạt bích ngọc, 269 hạt lam ngọc và 2650 viên đá qúi. Cũng trong năm này, Thánh tượng Mẹ đã được cung nghinh đến thủ đô Bồ Đào Nha là Lisbon trong dịp Đại Hội Giới Trẻ Công Giáo. Sau đó 4 năm, vào dịp kỷ niệm nước Bồ Đào Nha được hiến dâng cho Mẹ 300 năm trước, phong trào chính thức được phát động và phổ biến với cuộc cung nghinh Mẹ dài 250 dặm (tức gần 400 cây số), từ ngày 22/11 đến 24/12/1946, trong thời gian này, vào ngày 8/12, hàng giáo phẩm Bồ lại tái hiến dâng đất nước cho Mẹ. Một hiện tượng lạ xẩy ra trong cuộc cung nghinh Thánh Tượng này là có các con chim bồ câu bay đến đậu trên chân tượng Mẹ, như các “thiên thần hòa bình”, (tước hiệu này do chính thiên thần khi hiện ra với ba Thiếu Nhi Fatima năm 1916, lần thứ nhất, đã tự xưng), đi theo hộ tống Nữ Vương Hoà Bình. Năm 1946 phải kể là năm sửa soạn các cuộc Thánh Du khắp thế giới của Thánh Tượng Mẹ Fatima. Bởi vì, vào ngày 13/5/1946, qua vị đại diện Đức Thánh Cha Piô XII là đức hồng y Aloysius Cardinal Masalla, Tòa Thánh Rôma đã đội triều thiên (được làm phép ngày 13/10/1942) cho Mẹ trước khi Mẹ rời gót đi thăm đoàn con cái Mẹ ở khắp nơi trên thế giới. Vào dịp Tòa Thánh đội thiều thiên cho Mẹ này, Đức Thánh Cha Piô XII đã ban huấn từ qua vô tuyến truyền thanh đến Fatima như sau: “Phải, hãy đội triều thiên cho Nữ Vương Hòa Bình cũng là Nữ Vương Thế Giới, để, một lần nữa, Mẹ giúp thế giới tìm thấy hòa bình và vươn lên khỏi cảnh tàn rụi của mình! Bởi thế, triều thiên này, một biểu hiệu yêu thương và tri ân cho quá khứ, một biểu hiệu tin tưởng và thuận phục trong hiện tại, sẽ là một triều thiên trung tín và hy vọng cho tương lai” (TWTAF:97). Để rồi, kể từ sau ngày 13/5/1947, Mẹ đã chính thức các cuộc Thánh Du của Mẹ. Đầu tiên tại Âu Châu và tại Bắc Mỹ. Sau đó, Mẹ được chính con cái Mẹ trong phong trào Đạo Binh Xanh quốc tế, được thành lập tại Mỹ năm 1947, năm Mẹ đến Hoa Kỳ, hộ tống Mẹ đi các nơi khác trên thế giới. Các tượng Mẹ Fatima Thánh Du do Đạo Binh Xanh quốc tế hộ tống đi các nơi là các bức tượng được Đức Thánh Cha Phaolô VI làm phép tại Fatima ngày 13/5/1967, dịp ngài đến hành hương và dâng Bông Hồng Bằng Vàng lên Mẹ, và cũng là 70 bức tượng khác được Đạo Binh Xanh đem đến các nước trong năm 1971. Các cuộc Thánh Du của Mẹ đã xẩy ra đúng như lời “sứ giả của Đấng Vô Nhiễm Tội” (TWTAF3:108) là chị thánh Catarina Labuarê (được Đức Mẹ hiện ra năm 1830 ở Ba-Lê, nước Pháp), như Đức Thánh Cha Piô XII đã gọi chị vào dịp phong hiển thánh cho chị ngày 27/7/1947, nói tiên tri: “Một ngày kia, Đức Mẹ sẽ được vinh quang đưa đi khắp thế giới” (FTGS:127). Mẹ chẳng những được chính con cái của Mẹ nhận biết và yêu mến, mà còn được cả các con cái khác nhận biết nữa. Khi Thánh Tượng Mẹ đến Mozambique ngày 30/9/1948, một vị lãnh tụ của người Hồi Giáo, thuộc bộ lạc Ismaeli, đã đặt một chiếc kiềng bằng vàng gần tưọng Mẹ và nói: “Cảm tạ Đức Mẹ Fatima đã thực hiện các công cuộc yêu thương tại Phi Châu. Chúng tôi chúc tụng Bà cùng với Thiên Chúa Toàn Năng”(FTGS:126). Khi Thánh Tượng Mẹ đến Ấn Độ ngày 27/11/1949, thì cuộc nội chiến giữa Hồi Giáo và Ấn Giáo được tạm ngưng để tiến tới việc điều đình cho hòa bình của đôi bên. Thánh Tượng Mẹ đã đến Ai Cập và ở Heliopolis, nơi mà Thánh Gia đã sống đời tị nạn ngày xưa. Sau đó, Mẹ đến thăm Giêrusalem, Thánh Đô của quê hương trần gian yêu qúi của Mẹ và của Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người. Tháng 1/1950, Mẹ đến thăm nước Nga, nước mà Mẹ đang chờ “yêu cầu” của Mẹ được thực hiện là Mẹ sẽ làm cho trở lại. Ngày 29/10/1950, sau khi đi thăm một số nước ở Á Châu, Mẹ đã đến Rôma 3 ngày và ngự tại thánh đường Casaletto. Năm 1951, Mẹ đến thăm Úc Đại Lợi và Đại Dương Châu. Nhận xét về phong trào Mẹ Thánh Du này, Đức Thánh Cha Piô XII, qua vô tuyến truyền thanh, đã nói với các con cái Mẹ hành hương Fatima vào ngày 13/5/1951, như sau: “Qua các cuộc Thánh Du của Mẹ ở Mỹ Châu và Âu Châu, ở Phi Châu và Ấn Độ, ở Nam Dương và Úc Châu, Mẹ đã trào đổ ân phúc từ trời xuống, những sự lạ lùng về ân sủng đã gia tăng đến nỗi mắt chúng ta không thể nào tin được” (TWTAF3:319). Chẳng những Mẹ đi để ban ân phúc cho đoàn con Mẹ ở khắp mọi nơi trên thế giới, Mẹ còn ban biết bao ơn lành hồn xác cho các người con đến kính viếng Mẹ tại Đền Thánh Fatima, Linh Địa của Mẹ, nơi mà, như Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã nói với đoàn người hành hương Fatima ngày 13/5/1951 qua vô tuyến truyền thanh: “Rất Thánh Trinh Nữ đã chọn làm ngai tòa xót thương của Người cũng như làm suối nguồn tuôn chảy bất tận ân sủng và những sự lạ lùng” (TWTAF3: 319). Fatima thật sự là “suối nguồn tuôn chảy bất tận ân sủng và những sự lạ lùng”. Với cả 60 dòng tu lập nhà ở trung tâm hành hương, và vô số trung tâm để tĩnh tâm và hội thảo, (một trong những chủ đề cho năm hành hương 1979 là “Chính với trẻ nhỏ mà Mẹ đã nói"). Với 500 ngàn người cầu nguyện thâu đêm tới sáng để hiệp thông đền tạ ở 300 giáo phận trên thế giới vào ngày 13/10/1960. Với cả triệu người hành hương năm 1969, từ 53 quốc gia, trong đó có 4 hồng y, rất đông tổng giám mục và giám mục, đã thực hiện 32 thánh lễ đồng tế đại trào, và trên 10 ngàn thánh lễ thường. Với toàn thể hàng giáo phẩm Bồ Đào Nha, 700 nữ tu Phanxicô, trên 200 bề trên các dòng tu, 100 linh mục của Phong Trào Maria của Các Linh Mục, và 3500 giáo lý viên đến dự đại hội giáo lý tháng 4/1976. Với những cuộc hành hương bằng chân đi cả trăm dặm đến Fatima, hay đi bằng đầu gối chung quanh ngôi nhà thờ nhỏ hoặc băng qua khuôn viên, và qùi gối lâu giờ cầu nguyện dưới trời nắng chói hay trong cơn mưa tầm tã. Với đoàn hành hương Phật tử đến từ Nhật Bản vào năm 1969. Với các vị cao cấp Chính Thống Giáo đến cầu cho việc hiệp nhất Kitô Giáo vào năm 1970. Với đoàn hành hương lần đầu tiên đến vào năm 1992 từ Nga do chính Đức Tổng Giám Mục ở Mosco là Tadeusz Kondrusiewicz dẫn đầu, vị đã nói: "Hôm nay đây, mọi sự đã khá hơn. Thực sự chúng ta có thể cho đó là do lời tiên tri ở Fatima. Chúng ta làm sao quên được việc Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II hiến dâng Nước Nga và thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria năm 1984. Khi Gorbachev lên được ít lâu, thay đổi về sự lãnh đạo ở Cẩm Linh đã xẩy ra, kéo theo những đổi thay khác" (FFM:4-6/92). |